Chủ Nhật, 10 tháng 6, 2012

Chính sách ruộng đất của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX


TẠP CHÍ XƯA & NAY

Chính sách ruộng đất của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX

Vũ Văn Quân
Số 405 (6 – 2012)
Việt Nam bước vào thế kỷ XIX sau mấy thập kỷ biến động dữ dội, vương triều Nguyễn  thiết lập được chính quyền thống nhất nhưng vẫn phải đối mặt trước nhiều thách thức lớn, liên quan đến sự sống còn của vương triều. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, một lãnh thổ trải dài từ Lạng Sơn đến Cà Mau được xác lập. Đối với lịch sử dân tộc, sự kiện này có ý nghĩa vô cùng to lớn, là thành quả của những nỗ lực không ngừng của biết bao thế hệ người Việt Nam. Nhà Nguyễn cũng là vương triều đầu tiên trong lịch sử Việt Nam thực hiện quyền quản lý đất nước trên một phạm vi lãnh thổ rộng lớn và trải dài theo chiều Bắc Nam. Quản lý một đất nước rộng lớn trong điều kiện giao thông kém phát triển, thông tin liên lạc lạc hậu, lòng dân, lòng sĩ phu Bắc Hà không yên, một nền hành chính còn nhiều khác biệt, đất nước xộc xệch rã rời sau hàng thế kỷ đầy biến động…  là những khó khăn và thách thức đặt ra cho nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX.  
Bừa ruộng
Đứng trước những khó khăn, thách đố đó, các vua Nguyễn, triều đình nhà Nguyễn sẽ thực thi những chính sách cai trị như thế nào. Phản ứng tức thời của nhà Nguyễn trước thực trạng đất nước đầu thế kỷ XIX là quyết tâm nhanh chóng ổn định tình hình. Đây là  yêu cầu của đất nước, của nhân dân sau nhiều thập kỷ loạn ly. Giải pháp ổn định đất nước được nhà Nguyễn thực hiện chủ yếu bằng việc tăng sức áp chế từ trên xuống. Theo đó, về chính trị: tăng cường áp chế hành chính – quân sự; về kinh tế: thi hành chính sách trọng nông; về văn hóa: phục hồi và độc tôn Nho giáo; về xã hội: thiết lập thế bình quân chủ nghĩa. Thiết lập thế bình quân chủ nghĩa là một giải pháp hiệu quả nhất để tạo thế ổn định  trong điều kiện một xã hội nông thôn – làng xã – nông nghiệp phân hóa chưa cao như Việt  Nam. Chọn giải pháp này, nhà Nguyễn trước hết thực thi nó ở một lĩnh vực có tính then chốt là ruộng đất.
Bức tranh chế độ ruộng đất
Đầu thế kỷ XIX, cơ cấu ruộng đất Việt Nam vẫn bao gồm hai bộ phận: ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước và ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân. Sau hàng ngàn năm phát triển, chế độ tư hữu đã mở rộng đồng thời với sự thu hẹp của chế độ sở hữu nhà nước. Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước: nửa đầu thế kỷ XIX, theo sách Sĩ hoạn tu tri lục của Nguyễn Công Tiệp soạn khoảng những năm 1820-1843, trên toàn quốc các loại ruộng đất công  còn 580.363 mẫu, chiếm 17,08% tổng diện tích(1), bao gồm một bộ phận do nhà nước trực tiếp quản lý, còn lại chủ yếu là ruộng đất công của các làng xã.
Cày ruộng
Bộ phận ruộng đất thuộc quản lý trực tiếp của nhà nước ở đầu thế kỷ XIX gồm tịch điền, quan điền quan trại và đồn điền. Tịch điền là loại ruộng đất có tính chất lễ nghi thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp, số lượng không nhiều (cả nước ước khoảng vài trăm mẫu). Quan điền quan trại là loại ruộng đất vốn có từ các thời kỳ trước (các loại ruộng ngụ lộc, thưởng lộc, chế lộc, quan điền, quan điền trang, quan đồn  điền, quan trại). Nhà Tây Sơn đã dùng một phần trong số đó ban cấp cho các quan lại. Sau này nhà Nguyễn thu hồi và gọi chung là quan điền quan trại, đặt dưới sự quản lý trực tiếp của nhà nước. Địa bàn phân bố quan điền quan trại chủ yếu là khu vực Bắc và Trung Trung bộ, với diện tích khoảng vài ngàn mẫu. Một phần quan điền quan trại dùng để ban cấp cho một số đối tượng làm tự điền, phần còn lại dùng phát canh thu tô cho dân sở tại. Từ năm 1822, Minh Mạng cho chuyển dần quan điền quan trại thành ruộng đất công làng xã và đến giữa thế kỷ XIX thì cơ bản quan điền quan trại không còn tồn tại nữa. Đồn điền là loại ruộng đất kết hợp kinh tế với quốc phòng. Từ cuối thế kỷ XVIII, Nguyễn Ánh đã  cho lập đồn điền ở Nam bộ dưới hai hình thức: đồn điền do binh lính khai khẩn gọi là  trại đồn điền và đồn điền do dân khai khẩn gọi là hậu đồn điền. Nhà Nguyễn từng bước quân sự hóa hậu đồn điền và đến năm 1822 thì quyết định chuyển toàn bộ hậu đồn điền  thành trại đồn điền. Địa điểm chọn xây dựng đồn điền thường là những nơi xung yếu về quân sự và có tiềm năng đất đai. Vì thế, Nam bộ là địa phương tập trung đồn điền dưới  thời Nguyễn. Nhà nước chủ yếu sử dụng lực lượng binh lính, bên cạnh đó còn có một số  tù phạm đi khai khẩn, canh tác ruộng đất trong các đồn điền. Sản phẩm thu hoạch từ đồn  điền phần lớn nộp kho nhà nước, chủ yếu để đáp ứng nhu cầu tại chỗ của binh lính. Diện  tích đồn điền ở thời điểm cao nhất ước khoảng vài chục ngàn mẫu. Nhìn chung, các loại ruộng đất thuộc quản lý trực tiếp của Nhà nước chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu ruộng đất.
Bộ phận chủ yếu của sở hữu Nhà nước là ruộng đất công làng xã. Trong 17,08% ruộng đất công các loại còn tồn tại đến đầu thế kỷ XIX, phần lớn là loại ruộng đất này. Tuy nhiên, sự phân bố rất không đều giữa các địa phương. Phan Huy Chú nhận xét: “Nước ta duy có trấn Sơn Nam Hạ là rất nhiều ruộng và đất bãi công, phép quân cấp chỉ nên làm ở xứ ấy là phải, còn các xứ khác thì các hạng ruộng công có không mấy”(2). Vào năm 1852, theo lời Thượng thư bộ Hộ Hà Duy Phiên: “Thừa Thiên, Quảng Trị thì ruộng công nhiều hơn ruộng tư, Quảng Bình thì công tư bằng nhau, còn các hạt khác thì ruộng tư nhiều mà ruộng công ít, tỉnh Bình Định càng ít hơn”(3). Kết quả nghiên cứu tư liệu địa bạ  những năm gần đây cũng cho thấy điều đó. Sự phân bố không đều thể hiện trong phạm vi từng miền, từng tỉnh, có khi từng huyện, từng tổng.
Tại Bắc bộ, trong khi tỷ lệ công điền thổ ở Thái Bình còn tới 31,43% thì ở Hà Đông chỉ còn 22,12% (thời điểm 1805). Giữa các huyện của hai địa phương này cũng có sự khác biệt. Ở Thái Bình, tỷ lệ công điền thổ huyện Thanh Quan còn 7,2%, huyện Quỳnh Côi còn 17,32%, huyện Đông Quan  còn 20,75%, thì tỷ lệ đó ở huyện Vũ Tiên là 56,85%. Ở tỉnh Hà Đông, tỷ lệ công điền thổ huyện Đan Phượng còn 37,99%, thì ở huyện Hoài An chỉ còn 4,81%, huyện Sơn Minh chỉ còn  4,55%. Vùng Nam bộ, nơi tư hữu hóa phát triển rất mạnh nhưng vẫn có những địa phương sở hữu công vẫn chiếm ưu thế. Các số liệu điều tra vào đầu thập niên 30 thế  kỷ XX tiếp tục khẳng định điều này. Tỷ lệ ruộng đất công khu vực Bắc bộ còn khoảng 25%, Trung bộ còn khoảng 25%, Nam bộ còn khoảng 3%. Một số địa phương cụ thể, như  Thừa Thiên còn 72%, Quảng Trị còn 98,5%, phủ Xuân Trường (Nam Định) còn 74,5%, phủ Khoái Châu (Hưng Yên) còn 59%… Sự thu hẹp của ruộng đất công cho thấy vai trò của loại hình sở hữu này đã giảm sút ở nửa đầu thế kỷ XIX, nhưng tính chất phân bố không đều làm cho vai trò của nó ở các địa phương không giống nhau, có nơi ruộng đất  công vẫn là nguồn sống chính của cư dân.
Phân bố tỷ lệ ruộng đất công tư ở một số địa  phương (4)
Địa phương
Các loại đất đai (%)
Niên đại
Công điền
Tư điền
Các loại  khác
Hà Đông22,1265,3412,541805
Thái Bình31,4353,2415,331805
Bình Định8,7189,621,671815
Phú Yên1,3498,66-1815
Nam bộ                               -              18367,8592,151836
Ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân: tỷ lệ ruộng đất tư đầu thế kỷ XIX, theo Nguyễn Công Tiệp, là 82,92%, khẳng định vị trí bao trùm và chi phối của loại hình sở hữu này trong toàn bộ chế độ ruộng đất. Tuy nhiên, đặc điểm phân bố không đều làm cho vai trò của nó  ở các địa phương có sự khác biệt nhất định. Trong khi ở hầu hết các nơi ruộng đất tư là  nguồn sống chính của cư dân, cả địa chủ với thu nhập từ phát canh thu tô, cả nông dân tự canh và lĩnh canh ruộng đất của địa chủ, thì vẫn có những nơi ruộng đất công mới là nguồn sống chính. Trong sở hữu tư nhân, sự phân hóa đã diễn ra nhưng nhìn chung chưa cao và cũng rất chênh lệch giữa các địa phương. Có nơi sở hữu địa chủ đã chiếm ưu thế,  có nơi sở hữu bao trùm là của nông dân tự canh, có nơi sở hữu đặc trưng là của các lớp trung gian. Tại tỉnh Thái Bình, các lớp sở hữu trên 10 mẫu chiếm  64,55% ruộng đất tư,  sở hữu địa chủ đã thực sự phát triển ở đây. Tại tỉnh Hà Đông, các lớp sở hữu trên 10 mẫu  chỉ chiếm 28,90%, loại sở hữu đặc trưng là dưới 10 mẫu, riêng các lớp từ 3 đến 10 mẫu chiếm tới 48,72%. Tại tỉnh Bình Định, các lớp sở hữu trên 10 mẫu chỉ chiếm 9,30%, trong khi có tới 59,52% ruộng đất thuộc các lớp sở hữu dưới 3 mẫu. Tính chất không đều  còn thể hiện trong từng tỉnh. Ở tỉnh Thái Bình, các lớp sở hữu trên 10 mẫu thuộc huyện Chân Định là 74,30%, huyện Vũ Tiên là 78,11%, thì ở huyện Đông Quan là 59,99%, huyện Thanh Quan là 56,53%. Ở tỉnh Hà Đông, trong khi huyện Đan Phượng sở hữu  trên 10 mẫu chỉ chiếm 11,11%, huyện Từ Liêm chỉ chiếm 14,27% thì ở huyện Sơn Minh là 48,50%, huyện Hoài An là 56,40%. Vùng Nam bộ có một số chủ ruộng đã thực sự là  những đại địa chủ. Địa chủ Lê Văn Hiệu ở thôn Bình Xuân, tổng Hòa Lạc, huyện Tân  Hòa, tỉnh Gia Định (nay thuộc Gò Công, tỉnh Tiền Giang) có tới trên 1.841 mẫu ruộng, địa chủ Ngô Văn Lộc ở thôn Bình An cùng tổng có tới trên 1.045 mẫu ruộng… Nhưng đó vẫn chưa phải là loại sở hữu điển hình. Ngay tại vùng đất mà tư hữu hóa đã phát triển tương đối triệt để như Nam bộ, sở hữu đặc trưng của địa chủ vẫn là vừa và nhỏ.
Thái độ của nhà Nguyễn đối với vấn đề ruộng đất
Thái Bình
Hà Đông
Bình Định
Quy  mô
Số chủ
Ruộng đất
Số chủ
Ruộng đất
Số chủ
Ruộng đất
Dưới  1 mẫu2,20,1527,14,5161,4919,15
1- 3 mẫu16,613,5135,417,8830,0740,37
3 – 5 mẫu17,947,4117,048,085,1916,78
5 – 10 mẫu32,5824,3836,3432,092,5114,40
10 – 20 mẫu20,5229,7826,4942,770,647,20
20 – 50 mẫu9,3429,404,5213,630,102,10
Trên 50 mẫu0,785,37----
Bức tranh ruộng đất Việt Nam nửa  đầu  thế  kỷ  XIX đã đi vào chặng cuối của vận động tư hữu hóa. Ruộng đất tư đã bao trùm, đã có sự phân hóa trong sở hữu tư nhân, một số nơi đã đạt đến mức độ khá cao. Trước thực trạng đó, chính sách của nhà Nguyễn đối với  ruộng đất lại thể hiện rõ tính bảo thủ, làm cho quá trình phát triển tự nhiên của chế độ ruộng đất bị chững lại.
Thái độ tương đối nhất quán của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX là duy trì, bảo vệ và tham vọng mở rộng sở hữu nhà nước về ruộng đất. Thái độ này  quy định chính sách của nhà nước đối với vấn đề ruộng đất nói chung và với từng loại sở  hữu nói riêng.
Dưới thời Nguyễn, việc ban cấp ruộng đất chỉ còn lại duy nhất hình thức  tự điền (ruộng thờ) được thực hiện rải rác dưới thời Gia Long và đầu Minh Mạng, số lượng rất hạn chế, một phần do quỹ ruộng đất của nhà nước đã thu hẹp, mặt khác là để đề phòng tư hữu hóa từ việc ban cấp ruộng đất vốn đã từng diễn ra. Đối với bộ phận ruộng đất công làng xã còn lại, nhà nước cấm ngặt việc mua bán, cầm cố. Năm 1803,  Gia Long xuống dụ: “…Nếu xã thôn nào trái lệnh cấm, quen thói cũ, mua bán riêng với nhau, việc phát giác ra, thì người mua nhầm bị mất tiền gốc, người làm văn khế, người cùng đứng tên trong văn khế và những người làm chứng đều bị trị tội nặng, ruộng đất đem bán trong văn khế vẫn truy trả dân, lại theo lệ lấy một mẫu ruộng thưởng cho người tố cáo hưởng hoa lợi”(5). Để kiểm soát chặt chẽ bộ phận ruộng đất công làng xã làm cơ sở góp phần giải quyết các vấn  đề kinh tế – xã hội và ổn định tình hình đất nước, năm 1804, Gia Long chính thức ban hành phép quân điền. Đây là lần thứ ba trong lịch sử Việt Nam, nhà nước ban hành chính  sách quân điền. Cũng giống như phép quân điền các đời Hồng Đức và Vĩnh Thịnh, phép quân điền đời Gia Long quy định cụ thể các đối tượng được nhận ruộng và khẩu phần  tương ứng với từng đối tượng đó: quan lại văn võ từ tản giai tòng cửu phẩm đến chánh nhất phẩm được nhận từ 8 đến 18 phần; binh lính các hạng được nhận từ 7 đến 9 phần; dân đinh được nhận 6,5 phần; dân đinh già ốm, lão nhiêu cố cùng, tiểu nhiêu, nhiêu tật,  tàn phế được nhận 4 phần; trẻ mồ côi, đàn bà goá được nhận 3 phần. Về nội dung, không  có khác biệt lớn giữa phép quân điền Gia Long với phép quân điền các thời kỳ trước. Quan lại và binh lính vẫn là những đối tượng được ưu đãi. Thay đổi lớn nhất trong phép quân điền Gia Long là rút ngắn thời hạn chia lại ruộng từ sáu năm xuống còn ba năm. Mục đích của thay đổi này là nhằm tăng cường kiểm soát của nhà nước, hạn chế tư hữu hóa, nhưng chắc chắn sẽ đưa đến nhiều tiêu cực đối với đất đai.
Chuẩn bị cho lễ tịch điền
Phép quân điền Gia Long được thực hiện trong 36 năm. Đến năm 1840, Minh Mệnh tiến hành một số điều  chỉnh, theo đó quan lại, binh lính và dân đinh cùng được nhận một phần, các đối tượng khác được nhận bằng một nửa hoặc một phần ba. Việc giảm khẩu phần của quan lại và binh lính xuống bằng dân đinh, theo giải thích của Minh Mệnh là vì các đối tượng này đã  có  lương bổng của nhà nước.
Việc Gia Long ban hành phép quân điền chỉ hai năm sau khi nắm được chính quyền cho thấy ông vua này khá nhạy bén trong nhận thức về vai trò của ruộng đất công đối với việc ổn định tình hình xã hội. Chỉ có điều, sự thu hẹp lại phân bố  không đều của ruộng đất công làm cho tác dụng thực tế của chính sách này hạn chế, mỗi  nơi mỗi khác. Những nơi ruộng đất công còn nhiều, vẫn là nguồn sống chủ yếu của cư  dân, chính sách quân điền góp phần thể chế hóa việc phân phối, hạn chế sự thao túng  của tầng lớp hào cường.
Thể hiện tập trung nhất thái độ của nhà nước đối với vấn đề ruộng đất là những biện pháp mở rộng sở hữu công. Trong khai  hoang, có tới gần một nửa các quyết định của nhà nước quy định ruộng đất khai khẩn được trở thành sở hữu công cộng. Đặc biệt quyết liệt là chủ trương công hữu hóa một bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân.
Tỷ lệ bao trùm của sở hữu tư nhân về ruộng đất là thực tế mà nhà Nguyễn đã nhận thức được ngay sau khi xác lập nền thống trị. Trong chính sách của mình, nhà Nguyễn cũng có thái độ tôn trọng quyền tư hữu ở một mức độ nhất định. Tuy nhiên, với chủ  trương tăng cường sở hữu công cộng làm bệ đỡ kinh tế – xã hội cho thiết chế quân chủ  tập quyền, nhà Nguyễn từ khá sớm đã có tham vọng can thiệp vào ruộng đất tư. Năm 1803, một số quan cai trị ở Bắc Thành đề nghị Gia Long thi hành phép quân điền, bắt các chủ ruộng tư sung công 70% ruộng đất làm công điền quân cấp. Chủ trương này quá mạnh mẽ, lại vào lúc nhà Nguyễn mới được thiết lập, tình hình chưa thật ổn định nên đã không được chấp  nhận. Trong thời gian trị vì của mình, Gia Long cũng đã nhiều lần trăn trở về vấn đề này. Nhưng vốn là người thực tiễn, Gia Long nhận thức rất rõ tính chất phức tạp, bất ổn của chủ trương can thiệp vào sở hữu tư nhân. Đến Minh Mệnh, với thiết chế quân chủ tập quyền phát triển đến đỉnh cao, hơn bất cứ lúc nào cần phải tăng cường  chế độ sở hữu công cộng làm bệ đỡ kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, trước đề nghị của Vũ Xuân Cẩn, Tổng đốc Bình – Phú (Bình Định và Phú Yên) vào cuối năm 1838, sung công  một phần ruộng đất tư ở Bình Định làm công điền quân cấp, Minh Mệnh đã rất đắn đo: “Ruộng đất tư là của thế nghiệp, năm tháng đã lâu, sổ sách đã thành, nay vô cớ cắt mất của riêng huyết mạch của người ta, xét ra không phải là việc yên nhân tình, một phen làm  sợ rằng chưa thấy lợi mà nhiễu dân thì không nói hết”(6). Sau nhiều cân nhắc, triều đình Nguyễn vẫn quyết định tiến hành cuộc cải cách ruộng đất ở tỉnh Bình Định, nơi mà theo các quan cai trị địa phương, ruộng đất hầu hết là thuộc sở hữu tư nhân và tập trung chủ yếu trong tay tầng lớp địa chủ, như lời tâu của Vũ Xuân Cẩn:  “…Một hạt Bình Định ruộng công chỉ có trên năm ngàn mẫu mà ruộng tư nhiều đến bảy vạn một nghìn mẫu, các ruộng tư… Bị bọn phú hào chiếm cả, người nghèo không nhờ cậy gì”, “…ruộng đất  phần nhiều là ruộng tư, nhà phú hào chiếm cả, có đến một, hai trăm mẫu mà người nghèo  không một thước tấc, suốt đời làm đầy tớ người giàu” (7).
Tháng 7 năm 1839,  Minh  Mệnh sai Thượng thư bộ Hình Vũ Xuân Cẩn và Hữu Tham tri bộ Lễ Doãn Uẩn đi Bình  Định làm cải cách. Nội dung phép quân điền Bình Định như sau: giữ nguyên hiện trạng những thôn ấp ruộng đất công nhiều hơn ruộng đất tư hoặc công tư ngang nhau, những thôn ấp nào tư nhiều hơn công thì ruộng đất công vẫn giữ nguyên, cắt một nửa ruộng đất  tư sung công quân cấp. Theo quy định trên, 645 trên tổng số 678 thôn ấp ở Bình Định chịu tác động của cuộc cải cách này.
 Cuộc cải cách ruộng đất ở Bình Định năm 1839 là  một thí điểm của nhà Nguyễn trong chủ trương can thiệp vào sở hữu tư nhân, “cân bằng  công tư”, “san bớt giàu nghèo”, như ước ao của các hoàng đế Nguyễn. Tại đây, ruộng  đất tư đã chiếm tỷ lệ bao trùm, nhưng không hề có tình trạng tập trung ruộng đất mà rất  manh mún, không như lời tâu của Vũ Xuân Cẩn. Vì thế, một lý do khác nữa mà nhà  Nguyễn chọn Bình Định, rất có thể vì đây là quê hương của phong trào Tây Sơn, trước kia quân Tây Sơn đã tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân nghèo, nhà Nguyễn muốn thông qua cuộc cải cách này triệt để xóa bỏ dấu ấn của nhà Tây Sơn(8).
Cuộc cải cách Bình Định đã làm rung động cả xã hội Đại Nam bấy giờ, gây nên sự phản ứng của  các chủ tư hữu ở Bình Định, nhất là với bộ phận có quy mô ruộng đất lớn hơn, và cũng tiềm ẩn sự phản ứng đối phó của giai cấp địa chủ cả nước nói chung. Đến nỗi, hơn mười  năm sau, vào năm 1853, Lang trung trí sĩ Trần Văn Tuân dâng sớ nêu 10 việc cần làm ngay, trong đó có việc lập tức trả lại ruộng đất tư ở Bình Định(9).
Bức tranh ruộng đất Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XIX với tỷ lệ bao trùm của sở hữu tư nhân, sự phân hóa nhất  định trong chế độ tư hữu là kết quả tất yếu của sự vận động lịch sử. Trong quá trình đó, do những đặc điểm riêng, có sự khác biệt nhất định giữa các địa phương. Trước thực trạng ruộng đất đó, chính sách ruộng đất của nhà Nguyễn thể hiện rõ tư tưởng bảo thủ, một mặt duy trì, bảo vệ bộ phận ruộng đất công còn lại, mặt khác tìm cách mở rộng, đặc biệt là chủ trương can thiệp vào chế độ tư hữu để tăng quỹ ruộng đất công qua thí điểm ở Bình Định. Thái độ đó, chính sách đó làm cho quá trình tư hữu hóa  ở nửa đầu thế kỷ XIX bị chặn lại, phân hóa và tập trung ruộng đất trở nên khó khăn hơn. Sự vận động tiến hóa của chế độ ruộng đất Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XIX diễn ra trong  một môi trường không lành mạnh.
 
CHÚ THÍCH:
1. Nguyễn Công Tiệp, Sĩ hoạn tu tri lục, chữ Hán, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
2. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập III, Nxb Sử học, Hà Nội, 1960, tr.70.
3. Đại Nam thực lục chính biên, tập  XXVIII, Nxb Khoa học Xã  hội, Hà Nội, 1973, tr.336.
4. Phan Huy Lê (chủ biên), Địa bạ Hà Đông (Hà Nội, 1995), Địa bạ Thái Bình (Nxb Thế  giới, Hà Nội, 1997), Nguyễn Đình Đầu, Tổng kết nghiên cứu địa bạ: Nam kỳ lục tỉnh; Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn: Bình Định; Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn: Phú Yên;  Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn: Thừa Thiên (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1996-1997). 
5. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập IV, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1993, tr.113-114.
6. Đại Nam thực lục chính biên, tập XX, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1968, tr.259.
7. Đại Nam thực lục chính biên, tập XX, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội,1968, tr.258; tập XXI, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1969, tr.58.
8. Phan Phương Thảo, Chính sách quân điền năm 1839 qua tư liệu địa bạ, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2004.
9. Đại Nam thực lục chính biên, tập XXVII, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971, tr.412-413

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét